Trị vì Tây_Lương_Tuyên_Đế

Tây Ngụy lập Tiêu Sát làm hoàng đế triều Lương, và bản thân ông xưng đế vào mùa xuân năm 555, tức Tuyên Đế. Quân Tây Ngụy đã giao Giang Lăng cùng khu vực xung quanh cho Tuyên Đế, song đổi lại, họ yêu cầu ông phải giao quyền kiểm soát Tương Dương, Tây Ngụy còn để một đội quân đồn trú tại Giang Lăng, nhằm bảo vệ Tuyên Đế và để đảm bảo rằng ông không phản bội. Quân Bắc Ngụy cũng cướp phá Giang Lăng và đưa hầu hết cư dân và tài sản của triều Lương đến Trường An.

Trong lúc quân Tây Ngụy dưới quyền Vu Cẩn vẫn ở tại Giang Lăng, một thuộc hạ của Tuyên Đế là Doãn Đức Nghị (尹德毅) đã đề xuất tấn công bất ngờ Vu Cẩn và giết hết quân Tây Ngụy, sau đó tái khẳng định nền độc lập của Lương. Tuyên Đế đã từ chối, biện luận rằng Tây Ngụy đã bảo vệ mình rất nhiều và rằng quay sang chống Tây Ngụy là bất công. Sau đó, ông đã ân hận về quyết định này, song có vẻ nó là một hành động đúng trong bối cảnh các tướng Lương khác thể hiện khuynh hướng không công nhận ông là hoàng đế. Chính quyền của Tuyên Đế thường được các sử gia gọi là Tây Lương hoặc Hậu Lương.

Tuyên Đế truy tôn cha và thái tử phi của cha là hoàng đế và hoàng hậu, và tôn phong mẹ đẻ Cung bảo lâm là thái hậu. Ông phong Vương vương phi là hoàng hậu, và do thế tử Tiêu Liêu khi đó đã qua đời, ông đã phong thứ tử Tiêu Khuy là thái tử. Tuyên Đế giao phó phần lớn công việc triều chính cho Thái Đại Bảo và Vương Thao (王操), cả hai đều trung thành phụng sự cho ông. Tuyên Đế mong đợi rằng có thể đưa thêm các châu khác của Lương vào tầm kiểm soát của mình, song ngay lập tức, các tướng Lương bao gồm Vương Tăng Biện và Vương Lân đã từ chối công nhận ông. Vương Lân đã phái tướng Hầu Bình (侯平) đi đánh Tuyên Đế, và mặc dù Hầu Bình không giành được thắng lợi song Tuyên Đế cũng không thể khuếch trương tầm kiểm soát của mình.

Cũng trong năm 555, Vương Tăng Biện lập Tiêu Uyên Minh làm hoàng đế. Vào mùa thu năm 555, sau khi giết chết Vương Tăng Biện, Trần Bá Tiên đã phế truất Tiêu Uyên Minh và tuyên bố Tiêu Phương Trí là hoàng đế, tức Kinh Đế. Sau khi Trần Bá Tiên buộc Kính Đế phải thiện nhượng cho mình vào năm 558, lập ra triều Trần, Vương Lâm tuyên bố Tiêu Trang là hoàng đế, duy trì tình trạng tranh giành hoàng vị triều Lương.

Vào năm 558, nhân dịp Vương Lâm đông chinh Trần, Tuyên Đế đã phái Vương Thao dẫn quân đi chiếm các quận thuộc lãnh địa của Tiêu Trang ở Hồ Nam ngày nay, song không rõ về mức độ thành công của hành động này. Đến khi Hầu Thiến (侯瑱), bộ tướng của Trần Văn Đế đánh bại Vương Lâm vào mùa xuân năm 560, liên quân Tuyên Đế và Bắc Chu đã có thể đoạt được nửa phía tây lãnh địa của Tiêu Trang, và Tuyên Đế đã nắm quyền kiểm soát trên các lãnh thổ đó, mặc dù phải cần đến hỗ trợ quân sự của Bắc Chu.

Vào mùa thu năm 560, Hầu Thiến tiếp tục tiến quân, có ý đoạt lấy Tương châu. Các tướng của Bắc Chu là Hạ Nhược Đôn (賀若敦) và Độc Cô Thịnh (獨孤盛) đã dẫn quân đánh Hầu Thiến, quân Trần và Bắc Chu ngay sau đó đã lâm vào thế bế tắc. Thoạt đầu, Hầu Thiến đã không thể đạt được nhiều tiến triển trước Hạ Nhược Đôn và Độc Cô Thịnh, song ngay sau đó, việc thiếu cung cấp lương thực và đau ốm đã khiến quân Bắc Chu bị tổn hại. Khoảng tết năm 561, Độc Cô Thịnh đã buộc phải triệt thoát, khiến Hạ Nhược Đôn phải chịu áp lực lớn hơn. Sang mùa xuân năm 561, người trấn thủ Trường Sa là Ân Lượng (殷亮) đã hàng Trần. Hầu Thiến sau đó đã đề nghị Hạ Nhược Đôn triệt thoái trong hòa bình. Hạ Nhược Đôn chấp thuận và lui binh, và toàn bộ các lãnh thổ Bắc Chu đoạt từ tay Tiêu Trang nay thuộc về Trần, lãnh địa của Tuyên Đế một lẫn nữa lại chỉ giới hạn tại khu vực Giang Lăng.

Tuyên Đế thất vọng trước việc lãnh địa vừa nhỏ vừa bị thiệt hại nặng nề do chiến loạn. Sau đó, Tuyên Đế bắt đầu phải chịu một thương tổn da nghiêm trọng ở phần lưng. Ông qua đời vào mùa xuân năm 562. Tiêu Khuy đăng cơ kế vị, tức Minh Đế.

Sử gia Lý Diên Thọ trong Bắc sử đã ca ngợi và ghi nhận một số khí chất của ông:

Tiêu Sát khi còn thơ ấu là người có chí lớn, không câu nệ tiểu tiết. Mặc dù thường nghi kị người khác, song biết người tài để trao chức, vỗ về tướng sĩ và nhận được lòng trung thành của họ. Ông không uống rượu và bằng lòng với cuộc sống thanh đạm. Ông phụng dưỡng mẫu thân rất hiếu thảo. Ông không háo thanh sắc, đặc biệt là có ác kiến với phụ nhân, và thậm chí khi họ cách ông vài bước, ông đã có thể ngửi thấy mùi của họ. Những y phục mà ông dùng khi "ngự" các phụ nhân đều sẽ bị loại bỏ sau đó. Sau khi "hạnh" một người thiếp, ông mệt mỏi nằm cả ngày. Ông cũng không thích nhìn tóc người, và các hầu cận của ông phải đội khăn xếp hoặc đội mũ để tóc có họ sẽ không lộ ra.

Tuyên Đế là người có tài văn chương, ông đã soạn 15 quyển văn tập, 36 quyển nội điển như "Hoa nghiêm" (華嚴), "Bàn nhã" (般若), "Pháp hoa" (法華), "Kim quang minh nghĩa sớ" (金光明義疏).